Ở người nam, trên đường đi của nước tiểu thoát ra từ bọng đái, có một cơ quan án ngữ ngay cổ bọng đái. Cơ quan đó gọi là tuyến tiền liệt (còn gọi là tiền liệt tuyến, nhiếp hộ tuyến, tiền lập tuyến).
1. Tuyến tiền liệt có chức năng nhiệm vụ gì trong cơ thể?
Ở người nam, trên đường đi của nước tiểu thoát ra từ bọng đái, có một cơ quan án ngữ ngay cổ bọng đái. Cơ quan đó gọi là tuyến tiền liệt (còn gọi là tiền liệt tuyến, nhiếp hộ tuyến, tiền lập tuyến). Nếu so sánh với nữ, cơ quan tương tự có cùng nguồn gốc từ bào thai là tử cung. Nếu tử cung có chức năng tạo môi trường cho trứng của người nữ hoàn thành chiến lược của nó là thụ thai, thì tiền liệt tuyến (TLT) cũng có chức năng tạo môi trường thuận lợi cho tinh trùng. Có khác chăng là các bạn biết khá rõ về tử cung, nhưng TLT thì tương đối ít người biết đến trước khi bản thân hoặc người thân mắc bệnh.
TLT có hình chóp bu như quả mận (miền Bắc gọi là quả roi), kích thước khoảng 23 cm, nằm bao bọc lấy đoạn đầu của ống đái. Bắt đầu từ tuổi dậy thì, nó có một nhiệm vụ là sản xuất ra tinh dịch để làm môi trường cho tinh trùng hoạt động, tinh dịch sĩ đổ vào đoạn đầu của ống đái mà TLT bao lấy để phóng ra ngoài. Cũng vì vậy mà khi TLT bị bệnh như viêm, sỏi, bướu, người đàn ông sẽ có các triệu chứng rối loạn đi tiểu.
2. Các bệnh thường gặp ở TLT là gì?
Trong bài này chúng tôi xin đề cập đến loại bệnh u bướu ở TLT. U bướu ở TLT có hai loại và loại: loại bướu lành và loại bướu ác hay còn gọi là ung thư.
* Bướu lành TLT:là một bệnh thường bắt đầu xuất hiện ở người đàn ông từ 55 60 tuổi, cá biệt cũng có những người mắc bệnh này từ 40 tuổi. Nguyên nhân chưa được xác định rõ. Có người cho rằng bệnh thường gặp ở những người có cuộc sống hoạt động tình dục dồi dào, nhưng điều này cũng chưa chính xác vì ngay các bậc chân tu cũng thường gặp. Có thuyết cho là nguyên nhân từ sự ức chế hoặc tự miễn. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu gần đây đã nêu lên được mối quan hệ giữa hiện tượng viêm nhiễm TLT lúc thiếu thời với bệnh bướu lành lúc có tuổi, tức là những người lúc trẻ thường bị viêm nhiễm TLT thì lúc già càng dễ bị bướu lành tại tuyến này hơn những người khác.
* Ung thư TLT:là một loại bệnh ít gặp hơn. Trên thế giới, ung thư TLT là loại ung thư thường gặp nhất ở Thái Lan và là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng hàng thứ nhì. Mỗi năm, tại Canada có 20.000 trường hợp mới phát hiện và 250.000 trường hợp tại Mỹ. Đa số được phát hiện do nồng độ PSA trong máu (PSA=Prostate Specific Antigen: kháng nguyên đặc hiệu của TLT.
3. Tình hình mắc bệnh bướu TLT hiện nay như thế nào?
*Bướu lành:Như đã nói, bướu lành TLT thường gặp ở nam giới từ 50 tuổi trở lên, đa số không có triệu chứng, đến 60 tuổi mới bắt đầu có những khó chịu trong đi tiểu và lúc đó bệnh nhân mới đi khám. Tại BV. Bình dân, mỗi năm có khoảng 3.000 bệnh nhân đến điều trị.
* Ung thư TLT:Trước đây thì người ta nghĩ rằng bệnh ung thư TLT là một bệnh của những nước Âu Mỹ vì tỉ lệ bệnh này tại các nước này cao hơn rõ rệt so với các nước Á Phi. Điểm qua một vài con số thống kê ta có thể thấy rõ điều này. Tỉ lệ bệnh trên 100.000 dân của người Mỹ da trắng là 160, người Mỹ da đen là 100; Sau đó là các nước Thụy Điển, Na Uy, Canada, Úc; 3 nước Á châu có nền kinh tế khá nhất cũng chiếm hàng đầu trong danh sách các nước Á châu, đó là Hồng Kông: 18/100.000, Nhật: 17/100.000, Sigapore: 16/100.000.
Những nước trong khối Asean có nền kinh tế phát triển hơn Việt Nam cũng có tỉ lệ ung thư TLT cao hơn chúng ta. Đối với Mã Lai, bệnh này đứng hàng thứ 8 trong tất cả các loại ung thư, với Philippin là hàng thứ 12, Indonesia là hàng thứ 15. Trong khi đó, số liệu tại hội nghị ung thư Việt Nam vừa qua, ung thư TLT vẫn chưa để lại một dấu ấn đáng kể nào trong bản đồ phân bố mặc dù được xếp vào nhóm ung thư có triển vọng phát triển trong thời gian sắp tới. Điều đó đáng mừng hay đáng lo còn tùy thuộc vào góc độ chúng ta nhìn vào vấn đề.
Như đã nói ở trên, dân số càng phát triển thì số lượng người bệnh càng tăng. Kèm theo đó là yếu tố tháp tuổi, nếu tháp tuổi dân số càng phát triển về phía trên, nghĩa là tuổi thọ bình quân càng gia tăng, tỉ lệ trong cộng đồng mắc bệnh ung thư càng nhiều. Do đó tỉ lệ ung thư TLT của một nước càng cao thì càng phản ảnh lên rằng dân số nước đó càng già. Một số yếu tố được xem là ảnh hưởng lên tỉ lệ ung thư TLT.
Da trắng dễ mắc bệnh hơn. Ăn nhiều thịt dễ mắc bệnh hơn.Ăn nhiều đậu nành ít mắc bệnh hơn (đậu nành đối chọi với kích thích tố sinh dục nam vốn là yếu tố phát triển ung thư TLT).
Khi một xã hội phồn vinh hơn, phúc lợi chung cũng được tăng lên trong đó có y tế. Việc khám chữa bệnh cho cộng đồng sẽ được chu đáo hơn. Cụ thể hơn, tại BV. Bình Dân là một trung tâm Niệu khoa với 200 giường cho niệu, số lượng BN đến điều trị ung thư TLT có chiều hứơng gia tăng nhiều hơn trong những năm gần đây.
4. Bướu TLT có biểu hiện triệu chứng như thế nào?
Triệu chứng đầu tiên là rối loạn tiểu tiện nhẹ. Bệnh nhân thường khởi đầu bằng một trong hai triệu chứng là tiểu đêm hoặc tiểu chậm. Đến một tuổi nào đó, người đàn ông có tuổi chợt thấy mình phải thức dậy nhiều lần trong đêm để đi tiểu. Khi ra tiểu thì phải đứng một lúc lâu mới tiểu được, và phản ứng đầu tiên là nghĩ rằng già rồi thì thận yếu.
Nặng hơn, bệnh nhân sẽ có thêm các hiện tượng tiểu khó, phải rặn một lúc lâu mới bắt đầu tiểu được. Thêm vào đó là cảm giác tiểu không hết nước tiểu trong bọng đái, phải cố gắng mới tiểu hết. Nhưng khi quay vào giường thì vẫn còn cảm giác chưa được thỏa mãn. Lúc đó là lúc bướu TLT đã có những chèn ép nhất định vào ống đái và điều trị đã muộn rồi.
5. Nếu không được điều trị sớm bướu TLT có thể gây ra những biến chứng gì?
Nếu để quá giai đoạn nói trên, bệnh có thể sẽ phát triển và sinh ra các biến chứng sau:
Bí tiểu Đái ra máu Nhiễm trùng niệu Sỏi bọng đái, sỏi thận Suy thận Chuyển lập (di căn)6. Làm thế nào để xác định là bướu TLT?
Có thể chẩn đoán xác định bướu TLT bằng một hay nhiều phương pháp:
a) Thăm khám trực tràng: Người bác sĩ sẽ dùng một ngón tay đưa vào hậu môn để sờ thấy TLT sưng to, xác định được kích thước của bướu.
b) Siêu âm có thể chẩn đoán được bướu, đo kích thức của nó, cũng như phát hiện các biến chứng do nó gây nên.
c) Soi bọng đái là phương pháp dùng dụng cụ xem trực tiếp bướu, quan sát tình hình bọng đái, phần nào phân biệt với các bệnh khác như: ung thư bọng đái, sỏi bọng đái v.v…
d) Thử kháng nguyên đặc hiệu TLT trong máu, còn gọi là PSA. Nếu PSA thấp hơn 4mg/ml, khả năng ung thư sẽ rất thấp dưới 1%. Nếu PSA càng cao thì khả năng ung thư càng lớn. PSA rất cao cho chúng ta biết ung thư có thể đã chuyển lập đến các vị trí khác của cơ thể. Cần lưu ý rằng PSA cũng có thể cao trong một số tình huống khác ung thư như bướu lành rất to, nhiễm trùng niệu đạo, sau giao hợp. Do đó bệnh nhân cần được bác sĩ chuyên khoa tham vấn, hướng dẫn, biện luận trước và sau khi thử PSA. Ngoài ra PSA còn được dùng để theo dõi bệnh sau khi điều trị.
e) Sinh thiết, tức là dùng kim lấy ra một số mẫu thịt TLT để xét nghiệm.
7. Điều trị bướu TLT như thế nào? Có thể điều trị được không?
Tùy theo yếu tố: nếu là bướu lành, thì phương pháp điều trị tùy thuộc vào mức độ nặng nhẹ. Nếu triệu chứng nhẹ, BN có thể được theo dõi hoặc dùng thuốc điều trị, các thuốc gồm có:
Thuốc làm nhỏ bướu.Thuốc làm giản cơ vòng cổ bàng quang để cho tiểu dễ.
Thuốc có nguồn gốc thảo dược để làm bớt các triệu chứng kích bàng quang để BN bớt tiểu nhiều lần.
Nếu triệu chứng nặng, bí tiểu, suy thận thì cần phải phẫu thuật. Phương pháp mổ phổ biến hiện nay là cắt đốt qua máy nội soi. Hiện nay đa số các trung tâm y khoa của thành phố và các tỉnh có thể thực hiện được loại hình phẫu thuật này. Trong một số trường hợp quá nặng hoặc có kết hợp sỏi lớn trong bàng quang, thầy thuốc sẽ đề nghị BN chấp nhận mổ hở cắt bướu hoặc mổ thông bàng quang ra da.
Khi đã chẩn đoán là ung thư TLT, bác sĩ và bệnh nhân sẽ chọn một hay nhiều trong những phương pháp sau đây:
Biện pháp chính: Không làm gì cả.Phẫu thuật cắt bỏ tất cả toàn bộ TLT: là phương pháp triệt để lấy bướu khỏi cơ thể, áp dụng trong những trường hợp BN đến sớm và BN còn đủ sức chịu đựng cuộc mổ. Hiện nay ở TPHCM, chúng ta có thể chọn một trong hai phương pháp. Hoặc là mổ hở, tức là cắt bỏ bướu thông qua một đường rạch da trên bụng. Hoặc là mổ qua nội soi ổ bụng. Phương pháp này tối tân hơn, BN không phải bị rạch da, không có vết mổ dài, ít biến chứng hơn, nhưng BN phải tốn tiền thêm một ít và phải do các bác sĩ có tay nghề cao tại các trung tâm lớn.
Điều trị bằng tia xạ. Áp dụng trong cả giai đoạn sớm và giai đoạn trễ.
Biện pháp bổ sung:Cắt bỏ 2 tinh hoàn để chặn cho u khỏi phát triển.
Dùng thuốc ức chế hoạt động của tinh hoàn (kháng LHRH).
Dùng thuốc đối kháng hoạt động của Testosterol (flutaminde).
Mở bọng đái ra da: Áp dụng cho những BN có các biến chứng cần giải quyết, nhưng vì có những điều kiện khiến BN không thể đủ sức chịu đựng cuộc mổ, không đảm bảo an toàn cho phẫu thuật cắt bỏ bướu như: BN quá già yếu hoặc có kèm những bệnh nội khoa khác như lao phổi, tiểu đường, suy tim, tai biến mạch máu não…, nên trong những trường hợp này, người bác sĩ chỉ gây tê, rạch da và đặt một ống thông từ bọng đái ra trên bụng BN mà thôi. Vì bệnh thường chỉ xảy ra ở người có tuổi đời chồng chất, nhiều bệnh xuất hiện cho nên bệnh nhân nên tích cực điều trị khi còn sức khỏe, đừng để đến lúc quá già yếu sẽ không còn sức chịu đựng cuộc mổ.
Phẫu thuật cắt đốt nội soi bớt một phần khối u, áp dụng khi bướu đã qua giai đoạn phẫu thuật triệt để nhưng cần giải quyết một phần bế tắt cho BN tiểu dễ hơn.
Trong điều kiện kinh tế của chúng ta, chi phí cho các biện pháp chính thường rẻ tiền hơn, nhưng các biện pháp bổ sung lại giúp kéo dài cuộc sống cho BN hơn. Tùy phương pháp, mỗi BN sau mổ thường dùng thuốc khoảng từ 500.000đ đến 2.500.000đ mỗi tháng. Tuy là một bệnh ung thư đứng hàng đầu nhưng may thay ung thư TLT lại có diễn biến khá chậm.
Bệnh có tái phát sau khi chữa trị không ?Vì là bệnh ác tính nên phải theo dõi BN đều đặn mỗi tháng. Tỉ lệ tái phát tùy thuộc vào nhiều yếu tố trong đó việc mổ sớm hay trễ, có dùng thuốc bổ sung hay không là quan trọng.
Bệnh thường diễn tiến âm ỉ, không triệu chứng, và có rất nhiều BN qua đời vì nhiều nguyên nhân khác mà chỉ có thể biết khi làm giải nghiệm tử thi. Sách vở y khoa thường cho biết là từ lúc phát triển khối u cho đến khi mất vì ung thư là trung bình khoảng 10 năm. Do đó khi quyết định một phương pháp điều trị, người ta thường để ý đến yếu tố triển vọng sống và thể trạng chung của bệnh nhân. Tỉ dụ như một người đàn ông khoảng 75 tuổi, nhưng ở một nước mà dân số tuổi thọ bình quân 70 thì dù có mắc bệnh ung thư TLT thì cũng xem là thọ. Hoặc một số người mắc thêm bệnh tim mạch nặng, có thể đứng tim bất cứ lúc nào thì không ai nghĩ đến chuyện giải phẫu cắt bướu làm gì nữa.
Ngoài ra, một số phương pháp điều trị cũng đem lại nhiều phiền toái và biến chứng nhất định đi tiểu dầm dề không kiểm soát, liệt dương, mất hai tinh hoàn. Các phiền toái nói trên khiến người ta đặt vấn đề triển vọng sống và chất lượng cuộc sống còn lại lên hàng đầu trong khi cùng bệnh nhân thảo luận phương pháp điều trị cho họ.
Tóm lạiBướu ở TLT đa số là bướu lành. Ung thư TLT là loại bệnh ít gặp hơn. Dù là bướu lành hay ung thư thì bệnh cũng có thể được điều trị tốt nếu được khám phát hiện sớm. Tuy nhiên do những biểu hiện đầu tiên của bệnh chỉ là những rối loạn tiểu tiện nhẹ như tiểu đêm, tiểu chậm… nên nhiều BN thường bỏ qua, không biết để đi khám mà đôi khi còn tự mua thuốc theo lời mách bảo để tự điều trị vì tưởng là bệnh già, thận yếu, vì vậy vô tình để bệnh phát triển âm thầm nhiều năm sinh ra nhiều biến chứng khó chữa trị.
Do vậy, phái nam 50 tuổi trở lên nếu có những biểu hiện rối loạn đi tiểu thì nên đi khám ngay ở các BV chuyên khoa để được chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời nếu có bệnh.
PGS. BS. Vũ Lê Chuyên Bệnh viện Bình Dân